TRÍCH DỊCH Ngọc phả chép về vị thương đảng thân triều Trần là Ả Lương Thiên Thịnh Quỳnh Trân
Triều đại nhà Trần có nàng công Chúa Quỳnh Trân. Tiên tổ xa đời vốn là người vùng Mân, Triết (tức là vùng Phúc Kiến, Triết Giang, Trung Quốc - Ngô Đăng Lợi chú) đến chọn đất ở Yên tử, con cháu sinh ra đều có tiếng tăm cả, vào lúc cuối đời Tiền Lê, thiên hạ rối loạn nên họ Trần mới di cư về hương tức Mặc, lấy người con gái họ Vũ ở hương này, sinh ra Trần Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, ba đời này đều cư trú luôn ở đây và trở thành người Làng Tức Mặc. Trân Thừa lấy người làng là con gái họ Lê. Bà này vốn người hiển đức, nhan sắc, giỏi cai quản việc nhà, chăm nghề nông, nghề tằm tơ, do đó gia đình ngày càng giàu có, Trần Thừa trở thành Hào trưởng của Châu này. Ông bà sinh được 6 người con, con cả là Càn Khách (Liễu), con thứ là Nhật Cảnh. Cảnh có tướng mạo uy nghi, mặt rồng, lại có lòng nhân đức đại lượng, mang khí tượng đế vương. Triều vua Lý Chiêu Hoàng, Cảnh được giữ chức nội thị. Năm Ất Dậu (1225) được vua Lý nhường ngôi lên được thiên hạ đó là vua Trần Thái Tông, ở ngôi 33 năm, nhường ngôi cho Thái tử Hoàng, gia tu ở Chùa Chân Giáo (ngày ấy, người ta đua nhau theo cửa phật, cũng như công chúa Thiên Thính Quỳnh Trân). Thái tử Hoàng lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thiệu Khánh. Đó là vua Trần Thánh Tông, cha sinh của công Chúa Quỳnh Trân. Thánh Tông là người hiếu lễ, nhân từ, trọng người hiền, sùng và hiểu thấu đạo Phật. Ngay từ khi còn là Thái tử, đường con cái đã muộn mằn mới sai đạo sỹ Cung Thái Thanh làm sớ cầu tự. Thượng đế xem xong tấu chương, sai Nam giới thì thánh kim Chân, nữ thì công chúa Quỳnh Hoa xuống trần ở 6 kỷ. Một hôm vua Thánh tông tựa Long sàng ngủ, mơ thấy một phụ nữ nhan sắc rực rỡ, thong thả bước tới trước mặt nhà vua, tâu rằng:
Tôi là Công chúa Quỳnh Hoa ở thiên cung chầu hầu chúc thọ thượng đế, không may lỡ tay làm rơi chén ngọc, mẻ mất một góc, thượng đế cả giận đày xuống trần giới, thái sinh làm con nhà Vua. Vậy xin dâng trước một vòng xuyến Trân Châu để làm hậu nghiệm. Thánh Tông giơ tay nhận thì mắt nhìn rối loạn, giật mình tỉnh giấc, đem chuyện kể lại cho cung phi nghe (cung phi này tên là Vũ Thị Ngọc Lan). Sau Nàng có thai 8 tháng 20 ngày, sinh được một gái, lúc sinh ra nghe trên không có tiếng tiêu thiều nhã nhạc, hương lan tỏa mùi sực lức, báo điềm lành. Người con gái mới sinh sắc như bình bạc, mặt tựa gương báu, thân thể mang vẻ hoa nở sáng trăng, dung nghi giống như xuân sơn, thu thủy; vẻ người đoan chính, tục nhà Trần sinh con trai gọi là hoàng tử, con gái gọi là Ả Nương (Ả Nàng). Do đó gọi tên là Ả Nương Quỳnh Trân... Công chúa vốn dòng dõi thần tiên nên có sắc đẹp nghiêng nước, nghiêng thành, lại thông minh xuất chúng, học thức hơn người, thông thạo đủ cả cầm, thư, cung, kiếm. Nhà Vua rất yêu quý, lúc ấy có chiếu nhà Vua quy định thể lệ phong tục cho hoàng thân, vương hầu, công chúa thuộc dòng chính nhà vua được phong dòng lá ngọc cành vàng, cháu ba đười được phong tước hầu, cháu bốn đời ban cho tước Minh Tự. Cháu năm đời tước Thượng thẩm, cứ y theo ngũ phục đồ mà xét ban phong. Ngày mồng 2 tháng 10 năm Giáp Thân, Quỳnh Trân được phong là công chúa Thiên Thụy (sau xuất gia tu phật mới đổi là Thiên Thính...). Ngày tháng 12 năm 1274 sắc phong con trưởng là Khâm làm hoàng Thái Tử; Mùa xuân năm Kỷ Mão (1279), Vua nhường ngôi cho Hoàng Thái tử, Hiệu là Nhân Tông, Vua Nhân Tông tôn vua cha làm Thượng Hoàng. Nhân Tông lên ngôi đổi niên hiệu là Thiệu Khánh lúc này, chị gái nhà Vua, công chúa Thiên Thụy đã qua 20 tuổi, Thượng hoàng và nhà vua muốn gả chồng, nhưng công chúa không chịu, Thượng hoàng bắt ép, xuống chiếu gọi phò mã. Anh tài khắp nơi nô nức kéo về kinh nhưng không người nào vừa ý. Nhân Tông mới dựng cung điện riêng cho công chứa ở. Lại nói lúc ấy, hữu tướng quốc nhà Nguyên là Toa Đô dẫn 15 vạn quân sang nói thác là mượn đường đi đánh Chiêm Thành nhưng thực định cướp nước ta. Tháng 8 Vua đến Bình Than, hội họp vương hầu, trăm quan ở vụng Trấn Xá để bàn kế chống giữ. Hưng Đạo Vương tiến cử người Chí Linh là Trần Khánh Dư. Khi vào bệ kiến, vua phong làm phó đô, sai đem quân đi dánh giặc, quân Nguyên bị thua, Thượng hoàng khen là người có tài trí mới lập làm Thiên tử nghĩa nam (sách chép lầm là "dũng"). Năm nay người Man ở vùng núi làm loạn, Khánh Dư đi dẹp yên nên được thăng lên chức Phiêu kỵ tướng quân, quyền phán thủ. Nhà vua rất kính yêu. Từ đó được ra vào cung cấm, không kiêng dè gì nữa. Một hôm, Khánh Dư lẻn vào buồng công chúa Quỳnh Trân định thông dâm. Công chúa thét lớn: "Ngươi là loại người nào mà dám vào đây. Ta nghe nói đạo người nam tử phải lấy trung nghĩa làm đầu, đạo đàn bà trước hết phải giữ điều trinh thuận. Và ta là con gái Thượng Hoàng, ngươi là con nuôi của người dẫu không cùng máu mủ nhưng cũng là gốc của nhân luân, sao ngươi dám mang lòng lang thú, coi nhẹ cương thường quá thế. Nếu ngươi ra khỏi ngay ta sẽ tha cho, nếu không nghe lời thì sẽ hối không kịp đâu. Nói xong thét gọi cung nhân. Khánh Dư sợ, theo phía sau nhà chạy thoát. Thượng Hoàng được tin mới buộc tội Khánh Dư, lại đuổi về Chí Linh làm nghề buôn bán. Năm Quý Mùi 1283, công chúa lòng không muốn nhuốm bụi trần mới xin Thượng hoàng cho xuất gia thờ Phật. Thượng Hoàng bằng lòng, cho phép được di thăm thú các nơi trong nước xem nơi nào có thắng tích thì được dựng chùa, Công chúa từ phủ Thiên Trường đi tìm cảnh đẹp. Một hôm qua xã Nghi Dương, huyện Nghi Dương, Phủ Kinh Môn thấy địa thế đất này giống như con chim đang bay, núi non, sông nước mênh mông, phong cảnh thanh u, quả là cảnh cực lạc, bèn làm một am nhỏ, ngày đêm hương đèn thờ Phật. Nửa năm sau, lại mở rộng chùa, tạc tượng đúc chuông, chùa trở thành một danh thắng lớn gọi là Chùa Nghi Dương. Ngày 12 tháng 2 năm Giáp Thân (1284) làm lễ Khánh hạ, tự xưng đạo hiệu là Đại uy Thiên Thính, Công chúa lại mở rộng việc khai khẩn ruộng vườn, cấp phát tiền tài cho nhiều người cày cấy. Từ đấy dân Nghi Dương ngày càng đầy đủ, trở thành một làng giàu có lớn. Đến tháng giêng năm Ất Dậu (1285) tướng Nguyên - Ô Mã Nhi xâm phạm các xứ Vân Đồn. Vạn Kiếp rồi đưa quân vào Nghệ An. Vua họp quân thần, mọi người đều hô "Đánh", bỗng có một ông già nói: Chống giặc có hai cách Chiến hoặc Hòa; nên đánh mà không được thì nên hoà. Ngày nay, việc đã gấp, khó lòng đánh. Xưa Hung Nô nhiều lần xâm phạm biên cương nhà Hán, Cao Đế đem công chúa gả cho, cũng như sau lại gả Chiêu Quân, cho chức Thiền Vu ... mà không tốn sức, biên giới được yên. Thần xin nhà vua bắt chước người xưa để tìm kế hoãn binh. Sau ta sẽ mài nanh, rũa vuốt để mưu đồ tiến đánh. Thượng Hoàng nghe lời, xuống chiếu vời công chúa về kinh nghe lệnh chỉ. Công chúa tâu: "Sinh con trai mong dựng vợ, sinh con gái mong gả chồng để thành gia thất, đó là chí tình của cha mẹ. Nhưng con từ thuở nhỏ đã mộ đạo từ bị, dốc trí tu hành, cho thành phúc quả. Nay đâu giám đổi phong vị nhà chùa kham khổ mà lấy cao lương mỹ vị, đài các phong lưu. Thượng Hoàng thương tình cho trở về chùa. Rồi đem công chúa An Tư cho Thoát Hoan để thử nạn nước. Còn Công chúa Quỳnh Trân không chịu xuất giá, trở lại chùa Nghi Dương ngày đêm đốt hương thờ Phật, tụng niệm chân kinh, thiết lập dàn tràng, khuyến bố thí kẻ khó. Những người xung quanh đều được hưởng ân huệ, dân 5 xã người đói thì được giúp lương ăn, kẻ rét được cấp áo quần. Mọi người đều vui vẻ như được sống ở cõi đài xuân. Lúc này, ở xã Du Lễ có ông Bạt Hải rất cảm phục đạo đức lớn của công chúa mới đem ruộng tu ở xứ Tri Lai (tục gọi là Đồng Lại) gồm 26 mẫu cúng tiến. Công chúa rất khen ngợi hảo tâm và giao cho người cày cấy, lấy làm ruộng thờ cúng (tự điền) mãi mãi. Công chúa tuy ở chốn cửa Thiền nhưng do nhiều năm chăm nghiệp lớn nông trang. Vì thế điền sản ngày một nhiều, nô bộc ngày càng đông, việc trông nom, cai quản khó biết đầy đủ. Công chúa bèn dựng một cái quán ở cạnh ấp bảo nô bộc rằng: Các ngươi nghe hiệu lệnh của ta bằng tiếng mõ để đi làm hay về nghỉ. Nếu trong ngày hễ nghe tiếng mõ ở chùa thì về ăn uống, nếu nghe tiếng mỡ ở quán thì có công việc. Nô bộc vâng lệnh, hàng ngày cứ theo hiệu lệnh mà làm. Mọi người truyền ngôn gọi là "Chùa mõ", "Quán mõ". Công chúa nhân đó đổi tên là chùa Đồng Mục. Lại cho đắp một gò đất bên chùa để xem thời tiết. Dựng một nhà tại cánh đồng mõ để làm kho chứa giống má, nông cụ, lại cho đào một giếng nuớc mạch rất trong, cho người có nước uống lúc mùa Hè nóng nực, cánh đồng khô cạn. Một hôm, trẻ chăn trâu, bò bàn nhau: "Chúng ta rất khát, không biết xin ở đâu, trong chùa có giếng, ta vào xin nước uống". Nói rồi cùng nhau nắm tay cùng đến xin, Công chúa trông thấy khen ngợi và dặn các cháu nên cùng nhau vui đùa, chớ có nghịch ngợm. Các cháu thử cùng nhau thi vật xem thua được thế nào; ta sẽ cho nước uống khỏi khát. Bọn trẻ vâng lời kéo đến trước thềm, nắm tay cùng vật. Công chúa rất vui mừng, ban phép thần thông bỗng nhiên trời mưa đổ xuống. Bọn trẻ được uống nước ngọt lành đều vui vẻ ca múa nhảy nhót, lậy tạ rồi ra về, đều, xựng tụng Công chúa là Thiên thánh xuống trần.
Mùa xuân năm Mậu Tý (1288), quân Nguyên thua rút về Bắc, trong nước được thanh bình; hai vua xa giá về kinh sư, đại xá thiên hạ năm Tân Mão (1291) (7) Thượng Hoàng băng, Nhân Tông cùng Hoàng Thân, công chúa làm lễ an táng. Năm Giáp Ngọ (1292), mùa xuân, tháng ba vua Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử Thuyền (1293) xưng là Thượng Hoàng, xuất gia tu ở núi Yên Tử. Thái tử lên ngôi đổi niên hiệu là Hòang Long (tức là cháu công chúa Quỳnh Trân). Nhà vua ban chiếu quy định ruộng đất của các thân vương của thời Thái Tông được miễn tô thuế. Công chúa tâu bày tình hình của 5 xã. Nhà Vua chuẩn cho 5 xã đều được miễn tô thuế, lao dịch. Từ đó 5 xã ngày càng thêm giàu có, hưng thịnh; đều đội ơn công đức và cúi lúc Công chúa còn tại thời thì thờ như cha mẹ, lúc mất thì thờ làm phúc thân, hương khói truyền lưu mãi mãi không sai. Công chúa nói: "Dân làng đẫ có lòng tốt như vậy, ta có 100 lạng vàng giao cho 5 xã giữ lại để lo việc thờ tự. Xã Nghi Dương là dân sở tại, số ruộng vườn quanh chùa có 8 mẫu giao cho Xã này làm ruộng hương hoả, còn hơn 20 mẫu ờ Du Lễ thì giao cho xã này cày cấy để cúng đốn giỗ chạp, số ruộng này vốn của ông Bạt Hải cúng tiễn, không được đem chia, để giữ tình nghĩa trọn vẹn. 5 xã đều vâng lệnh tuân theo. Lại nói, lúc bấy giờ có người đạo sỹ phương bắc là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn đến bãi sông An Hoà làm trai đen; nhiều nơi làm theo. Thượng Hoàng từ núi Yên Tử đi vi hành cùng vài chục người đến chùa Mụ Phúc thăm chị, mời về phủ Thiên Trường lập một thập. Lúc ấy trời đã hoàng hôn, người qua lại vắng vẻ, Thượng Hoàng vội gọi đò qua sông. Xa quan hỏi: Anh là ai mà đêm hôm dám làm kinh động bến đò và ra lệnh lái đò đánh cho 60 roi, đến khi người đi theo đến kịp bọn xã quan mới biết là Thượng Hoàng bèn sự bỏ chạy chốn cả. Thượng Hoàng nhân đó mới đặt lên thôn ấy là thôn Sáu Mươi (tục gọi bến đò là đò Sáu Mươi). Khi đến chùa Mụ Phúc bảo chị "Nay có thầy phương Bắc đến lập đàn chay, mời chị về cung Trùng Hoa nghe giảng". Công chúa cùng Thượng Hoàng về phủ Thiên Trường tổ chức hội Võ lượng phép ở chùa Phổ Minh cúng vàng bạc tiền lửa và chẩn giúp dân nghèo cùng khuyên dân noi theo phép Phật. Xong việc, Công chúa về chùa Nghi Dương, Thượng Hoàng trở lại núi Tử Tiêu trong vùng núi Yên Tử, tự đặt hiệu là Trúc Lâm Đại Sỹ. Tháng tư năm thứ 16 niên hiệu Hưng Long Công chúa bị bệnh nặng, Thượng Hoàng đến thăm và dặn "Đến giờ thì chị cứ đi; nếu Diêm Vương có hỏi thì cứ bảo xin chờ cho một lát, em tôi là Trúc Lâm Đại Sỹ sẽ đến". Lại cho mời dân 5 xã đến bảo rằng"Chị ta xuất gia tu lâu ở chùa này, có công lao và tài sản để lại cho dân. nếu người trăn tuổi, dân hãy lập đền thờ. Mọi người đều vâng mệnh. Ngày 14 tháng ấy Thượng Hoàng về đến Yên Tử, căn dặn mọi việc lại cho người giúp việc là sư Pháp Loa rồi tự nhiên ngồi mà hoá. Công chúa cũng mất trong ngày hôm ấy. Di hài Công chúa và Thượng Hoàng đều được rước về chùa Tư Phúc ở Kinh sư lập tháp an láng. Trần Anh Tông ra sắc chỉ tặng phong là "A Nương Thiện Chính Quỳnh Trân công chúa", lại ban cấp hơn 300 quan tiền đồng cho 5 xã Nghi Dương, Xuân Dương, Mai Dương, Tú Đôi, Du Lễ rước sắc về xã Nghi Dương lập đền thờ. Dân 5 xã cảm công ơn của Công chúa liền về kinh rước sắc về và dựng một điện bên cạnh chùa Nghi Dương đề thần hiệu để thờ phụng.
Từ khi công chúa đã hoá thường rất linh ứng giúp nước, che chở cho dân, trừ tai nạn cho nên trải qua các triều đại, các Vua Chúa đều có sắc, cáo tặng thêm Mỹ tự, mùa Xuân, mùa Thu đều sai quan đến đền tế, Hương hỏa truyền mãi.
Một đạo sắc phong: Trần triều A Nương Thiên Thính Quỳnh Trân Thượng Đẳng thần.
Chuẩn cho 5 xã Nghi, Xuân, Mai, Tú, Du thuộc huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, Đạo Hải Dương thờ cúng.
- Ngày Thánh đán (sinh nhật) 22 tháng Tám
- Ngày Thánh hoá 14 tháng 4
- Ngày Khánh hạ 12 tháng 2
- Ngày Kỳ phúc 06 tháng giêng
Các ngày lễ trên đều tổ chức hội vật là trò chơi mà lúc sinh thời Công chúa ưa thích.
Niên hiệu Vĩnh Hựu, quan coi việc quản giám các thần, giữ chức Tư diện Hùng Lĩnh thiếu khanh là Nguyền Hiền, tuân theo bản (Ngọc phá) cũ sao lại.
- Bản sao này là bản sao, bản chính thần tích cùa các xã: Tú Đôi, Nghi Dương, Du Lễ. sao vào ngày 15 tháng tư năm Thành Thái thứ hai (1890) do các viên chánh tổng; cựu chánh tổng và đoàn trưởng huyện lâm thời 3 xã trên sao.
Kèm theo có bản kê khai số ruòng “Tự điền" ơ các xứ đồng do viên chánh tổng thì sai kê khai và đóng dấu.
- Có một bản phụ lục kê khai đầy đủ rõ ràng các bàn sắc phong của các triều:
Trần Anh Tông (1314)
Lê Vĩnh Thịnh năm thứ 7 (1711)
Lê Vĩnh Khánh năm thứ 2 (1730)
Lê Cảnh Hưng năm thứ 28 (1767) và năm thứ 41 (1784)
Lê Chiêu Thống năm đầu (1787)
Nguyễn Quang Trung năm thứ 2 (1789) Tây Sơn
Nguyễn Cảnh Thịnh năm đầu (1793)
Nguyễn Gia Long năm thứ 9 (1819)
Nguyễn Thành Thái năm đầu (1889)
Nguyễn Duy Tân năm thứ 3 (1910)
Khải Định năm thứ bẩy (1924)
Chú giải:
(1) Theo sử, tháng 10 năm Thiệu Long thứ 9 (1266) cho Vương Hầu, phò mã, công chúa, cung tần chiêu tập dân xiêu tốn để làm nô tỳ khẩn hoang, lập điền trong.
Vậy ấp Mõ được lập vào quãng năm 1283-1284.
(2) Tháng 12 năm Giáp Tuất (1274) sách phong hoàng thượng từ Khâm làm Hoàng Trưởng tử (sau là vua Trần Nhân Tông). Vậy Quỳnh Trân cũng được phong vào năm này, chứ không thể là năm Giáp Thân (1284)
(3) Theo nguyên su, tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282) Toa Đô đem 5000 quân từ Quảng Châu đi đánh Chiêu Thành. Thần phả ghi 15 vạn, còn toàn thủ chép lầm là 50 vạn.
(4) Toàn thư: cháp việc Nhân Tông ra Bình Than họp với Vương hầu ở vụng Trần Xá vào mùa Đông, tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282). Việc xá tội cho Khánh Dư thông dâm với Công chúa Thiên Thụy cũng ở cuộc họp này.
(5) Việc Thượng hoàng Thánh Tông sai đem con út mình là công chúa An Tư cho Thoát Hoan để thử nạn nước vào tháng 2 năm Ất Dậu 1285.
(6) Tứ Vũ Hải Được phong làm Lang tướng. Theo thần thả thì ông đã đâm Toa Đô bị thương trong trận tổng kết.
(7) Theo sử, Thượng Hoàng Thánh Tông băng (chết) vào ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần 1290.
(8) Theo sử: mùa xuân ngày 9 tháng 3 năm Quý Tỵ 1293 Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử Thuyên.
(9) Hứa Tông Đạo đến nước ta vào năm Bính Tý (1276), Toàn Thư chép năm Nhâm Dần (1302) là sai.
(10) Toàn thư chép Thượng Hoàng mở hội này vào rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303).
(11) Toàn thư chép rõ: Nhân Tông băng ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308) Công chúa Thiên Thụy mất cùng ngày.
Chỉ xỉn lưu ý khi sử dụng bán thần phà này nên đối chiêu với chính sử và cuốn " Nam ông Mông lục" của Hồ Nguyên Trường – Phần viết về Trần Nhân Tông.
Xuân Mậu Dần (1998)
Ngô Đăng Lợi
HỘI ĐỒNG LỊCH SỬ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG